Bài 148: Mạc khải Kinh Thánh về Sự Chết | Dưới ánh sáng Lời Chúa
Lm Gioan Nguyễn Thiên Minh, OP - Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ
Dẫn nhập
Ngay từ thuở ban đầu, con người đã ý thức về giới hạn của kiếp sống và luôn tự hỏi : “Liệu sự chết có phải là dấu chấm hết cho tất cả mọi sự, chấm dứt mọi mối tương quan không?”. Câu hỏi như vậy quả thật không dễ có câu trả lời thỏa mãn cho trí hiểu của con người, vì thế có thể nói, sự chết luôn là một trong những nan đề lớn nhất mà con người phải đối diện.
Vậy, trong buổi học hỏi Kinh Thánh tuần này, chúng ta sẽ tìm hiểu xem Kinh Thánh mặc khải cho chúng ta hiểu thế nào về sự chết và ý nghĩa thật sự của nó là gì.
1. Sự chết - một thực tại đau đớn
Ngay từ những trang đầu của sách Sáng Thế, vấn đề sự chết đã được đề cập đến như một thực tại vừa bất ngờ, vừa cay đắng của con người bởi lẽ sự chết không chỉ là một hiện tượng sinh học tất yếu, mà sự chết còn mang chiều kích thần học vì nó gắn liền với thân phận tội lỗi và sự giới hạn của con người trước Thiên Chúa. Theo đó, trong Cựu Ước, người ta nhìn sự chết như nỗi ám ảnh và nỗi buồn khôn nguôi của kiếp nhân sinh, còn trong Tân Ước, sự chết dù vẫn là thực tại đau thương, nhưng đã được thắp sáng hy vọng nhờ biến cố Đức Giê-su Ki-tô chết và phục sinh.
2. Sự chết - hậu quả của tội lỗi
Ngay từ đầu sách Sáng Thế, Kinh Thánh đã khẳng định rằng con người vốn được dựng nên để sống trong tương quan hạnh phúc với Thiên Chúa, nhưng con người đã tự mình bước vào tình trạng “chết” vì tội bất tuân Thiên Chúa khi đã ăn trái cây mà họ không được phép ăn (x. St 3,6). Mặc dù khi phạm tội, sự chết thể lý không xuất hiện lập tức, nhưng đó là lúc con người tự mình cắt đứt sự hiệp thông với Thiên Chúa là nguồn mạch sự sống. Vì thế thánh Phaolô đã viết :
Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết (Rm 5,12).
Như thế, sự chết không đơn thuần là một định luật tự nhiên, mà còn là hậu quả của tội lỗi.
Dưới góc nhìn đó, chúng ta thấy sự chết chính là một sự đổ vỡ toàn diện : thân xác trở về tro bụi, tương quan người với người bị cách biệt, và tương quan với Thiên Chúa không còn nữa. Theo đó, sự chết trở thành kinh nghiệm đau thương nhất của phận người.
3. Sheol - bóng tối của cõi chết
Trong truyền thống Ít-ra-en, người sẽ chết đi vào một nơi gọi là Sheol tạm hiểu là âm phủ, đó là một nơi u tối không có ánh sáng và không có niềm vui (x. G 10,21), và là nơi kẻ chết không còn cơ hội ca tụng Đức Chúa (x. Tv 115,17). Theo đó, sự chết trở thành một định mệnh bi thương và khủng khiếp như lời than van của các tác giả Thánh Vịnh 39 :
Lạy CHÚA, xin dạy cho con biết :
đời sống con chung cuộc thế nào,
ngày tháng con đếm được mấy mươi,
để hiểu rằng kiếp phù du là thế.
Ấy tuổi đời con, Chúa đo cho một vài gang tấc,
kiếp sống này, Chúa kể bằng không.
Đứng ở đời, thật con người chỉ như hơi thở,
thấp thoáng trên đường tựa bóng câu.
Công vất vả ngược xuôi : làn gió thoảng,
ky cóp mà chẳng hay ai sẽ hưởng dùng (Tv 39,5-7).
Những lời than van này chất chứa tâm thức bi quan, ai oán vì sự chết là giới hạn tuyệt đối mà con người không thể tự vượt qua, nhưng thực tế, khi đọc kỹ Cựu Ước, chúng ta vẫn có thể thấy bên cạnh những tiếng than về “Sheol”, các tác giả thánh cũng đã manh nha niềm hy vọng rằng sự chết không phải là dấu chấm hết. Chẳng hạn như tác giả sách Khôn Ngoan khẳng định : “Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa, và chẳng cực hình nào động tới được nữa” (Kn 3,1), hoặc lời ngôn sứ I-sai-a tiên báo ngày Đức Chúa sẽ “vĩnh viễn tiêu diệt tử thần” (Is 25,8), trong khi tác giả sách Đa-ni-en tuyên bố mạnh mẽ rằng :
Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy : người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời (Đn 12,2).
Tất cả những mặc khải này cho thấy từ trong bóng tối, ánh sáng niềm tin vào sự sống lại đã xuất hiện. Theo đó, sự chết không còn chỉ là nơi giam hãm con người trong sự tuyệt vọng, mà còn được xem là điểm hẹn nơi Thiên Chúa bày tỏ quyền năng cứu độ. Như vậy, có thể nói, trong chính chỗ tận cùng của sự bất lực, con người lại được dẫn tới chỗ tín thác vào ơn cứu độ của Thiên Chúa.
4. Sự chết - cửa ngõ sự sống mới
Bước sang Tân Ước, trước khi chiêm ngắm chiến thắng phục sinh, ta thấy Đức Giê-su và các môn đệ của Người cũng đối diện với sự chết như một thực tại đau buồn. Tin Mừng Gio-an ghi lại cảnh Đức Giê-su thổn thức trước mộ anh La-da-rô (x. Ga 11,35), và những giọt nước mắt ấy đã xác nhận rằng sự chết vẫn là kẻ thù, vẫn gây xót xa cho cả Con Thiên Chúa khi Người đứng trước sự chia lìa. Cũng vậy, trong vườn Cây Dầu, Đức Giê-su cũng từng cảm thấy “tâm hồn buồn đến chết được” (Mt 26,38), qua đó cho thấy sự chết không hề bị giản lược hay loại bỏ, mà nó vẫn thực sự là một vết thương đau đớn của nhân loại, mà chính Đức Giê-su, Con Thiên Chúa đã tự nguyện đón nhận.
Như vậy, chính trong bi kịch sự chết, Thiên Chúa đã chuẩn bị một con đường mới để biến sự chết từ chỗ là dấu chấm hết, trở thành cửa ngõ mở ra ơn cứu độ, để sự chết không còn là một thực tại phi lý mà trở thành một “mầu nhiệm”, nơi con người đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Theo đó, đối với Ki-tô hữu, nhờ Đức Ki-tô, sự chết không còn chỉ là sự chấm hết, mà là cuộc khởi đầu mới cho một tương quan mới giữa con người với Thiên Chúa, như cách mà thánh Phao-lô diễn tả : “Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô, và chết là một mối lợi” (Pl 1,21). sự chết, theo đó, không phải là mất mát tuyệt đối, nhưng là lúc được kết hợp trọn vẹn với Đức Ki-tô phục sinh. Tư tưởng thần học về sự chết này đã thay đổi toàn bộ quan điểm về sự chết, theo đó sự chết thay vì là vực thẳm tang tóc, mất mát và chia lìa, thì nay nhờ Đức Ki-tô, sự chết đã trở thành cửa ngõ để bước vào sự sống thật, trở thành khởi điểm của sự hiệp thông viên mãn. Vì thế, người Ki-tô hữu được mời gọi đối diện với sự chết không phải trong tuyệt vọng, nhưng trong niềm tín thác và hy vọng.
5. Tương giao giữa người sống và kẻ chết
Như đã nói trên, mặc dù Cựu Ước thường nhìn sự chết như sự tách rời, nhưng đồng thời cũng hé mở mối dây liên kết không thể bị cắt đứt giữa con người và Thiên Chúa, vì thế truyền thống Do-thái vẫn cầu nguyện cho những người đã khuất. Sách Ma-ca-bê quyển thứ hai kể lại việc ông Giu-đa Ma-ca-bê dâng hy lễ đền tội cho những người đã chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi (x. 2 Mcb 12,45) đã minh chứng một niềm tin rằng sự chết không chấm dứt mối dây hiệp thông, mà giữa người sống với kẻ chết vẫn có thể nâng đỡ nhau bằng lời cầu nguyện và lễ tế. Như thế, ngay trong Cựu Ước, mối liên hệ giữa người sống và kẻ chết vẫn được duy trì nhờ niềm tin vào sự sống lại.
Còn trong Tân Ước, mặc khải về sự sống lại đạt đến cao điểm nơi Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết và đã sống lại. Theo đó, Đức Giê-su Ki-tô trở thành bảo chứng cho những ai gắn bó với Người sẽ không bao giờ bị tách khỏi tình yêu và sự sống của Thiên Chúa, kể cả khi họ đã chết, như lời thánh Phao-lô khẳng định :
Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm, hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta (Rm 8,38-39).
Qua đó cho thấy sự chết không phá vỡ mối hiệp thông trong Đức Ki-tô, mà trái lại, những ai đã chết trong Đức Ki-tô thì dù trong một cách thế khác, họ vẫn thực sự hiệp thông với sự sống của Hội Thánh. Vì thế trong thư thứ nhất Thê-xa-lô-ni-ca, thánh Phao-lô đã an ủi cộng đoàn Ki-tô còn đang lo lắng cho người đã khuất rằng :
Nếu chúng ta tin rằng Đức Giê-su đã chết và đã sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Đức Giê-su, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giê-su (1 Tx 4,13-14).
Những lời này không phải là những lời an ủi suông mà là một niềm tin chắc chắn rằng người đã khuất vẫn thuộc về cộng đoàn Hội Thánh của Đức Ki-tô.
Kết luận
Như vậy, Kinh Thánh không phủ nhận nỗi đau buồn mà sự chết gây ra, nhưng nhờ lòng tin vào Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết và đã sống lại, nỗi đau này đã được biến đổi thành niềm hy vọng phục sinh. Nhờ đó, Ki-tô hữu có thể vẫn cảm thấy đau buồn trước cảnh chia ly thể lý bởi sự chết, nhưng chúng ta không mất niềm hy vọng vào sống lại. Theo đó, cầu nguyện cho người đã khuất là việc chính đáng và phải đạo, đồng thời khích lệ chúng ta sống có trách nhiệm với nhau trong mối dây hiệp thông vĩnh cửu, vì trong Đức Ki-tô, chúng ta mãi mãi thuộc về nhau.
bài liên quan mới nhất
- Bài 147: Người Pha-ri-sêu và người Thu Thuế
-
Bài 146: Viên Quan Tòa và Bà Góa: vấn nạn công bằng | Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 145 : Anh ta lại là người Sa-ma-ri -
Bài 144 : Kinh Kính Mừng từ trình thuật Truyền tin -
Bài 143: Giàu và nghèo trong Kinh Thánh | Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 142: Lẽ nào Chúa lại khen kẻ bất lương? | Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 141: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một | Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 140: Theo Đức Giê-Su, phải ghét bỏ người thân và từ bỏ tất cả ? | Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 139: Chỗ Nhất của Khiêm Nhường | Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 138: Cửa Hẹp - Hoán Cải - Chiến Đấu | Dưới ánh sáng Lời Chúa
bài liên quan đọc nhiều
- Bài 13: Chúa Thánh Thần qua các tước hiệu trong Kinh Thánh
-
Bài 32: Giờ thứ ba, giờ thứ sáu,... Giờ thứ mười một thời khắc trong Kinh Thánh -
Bài 12: Cái Biết Theo Kinh Thánh I Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 14: Chúa Giêsu được ĐƯA LÊN trời -
Bài 42: Tỉnh thức hay Canh thức theo Kinh Thánh -
Bài 10: Sự kiện “hiện ra” trong trình thuật Kinh Thánh I Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 62: Chứng từ Đức Kitô Phục Sinh / Dưới Ánh Sáng Lời Chúa -
Bài 20: Kiểu nói “Yêu, Ghét” trong Kinh Thánh -
Bài 64: Thiên Sai Luận Mục Tử / Dưới Ánh Sáng Lời Chúa -
Bài 115 : Người con hoang đàng hay người cha nhân hậu ?